Chuyên mục
Chuyện ăn

1.

Tôi bắt đầu công việc mới ở Sài Gòn sau một tuần dọn nhà và ổn định chỗ ở. Hang đá thời tiền sử nơi tôi ở trọ không lấy gì làm hấp dẫn, nên tôi ra ngoài suốt. Chăm sóc khách hàng trực tuyến cho một công ty khởi nghiệp chuyên bán linh kiện máy tính, một công việc không nhẹ nhàng cũng chẳng vất vả, không thú vị cũng chẳng chán chường, không ổn định cũng chẳng bấp bênh, không đến mức an phận nhưng tương lai chẳng lấy gì làm thăng tiến. Nó nắm đâu đó giữa ranh giới mông lung của vất vả và thoải mái. Suốt hai tháng thử việc, tôi làm 7 ngày một tuần, không nghỉ. Đến khi được nhận chính thức, tôi được nghỉ mỗi tuần vào ngày thứ 7. Công việc giúp tôi sống qua ngày, những ngày nghỉ hiếm hoi thắp lên trong tôi một hy vọng le lói, như một sự an ủi. Hy vọng về chuyện gì, hay tương lai ra sao, thật sự tôi chưa đoán định được.

“Sài Gòn là giao điểm của đủ thứ cuộc đời. Mày cứ ở đây, sớm muộn rồi cũng gặp chỗ đồng quy. Có đường thẳng nào mà song song mãi được.” – Già Rô nói oang oang trong điện thoại.

Già Rô lớn hơn tôi mười tuổi, gia đình vợ con sự nghiệp đàng hoàng. Đầu húi cua, da trắng, quần tà lỏn, áo thun. Khí chất “người giàu” toát lên mồn một từ giọng điệu đến dáng đi, thoát ra khỏi những vết rách trên áo và cái ống quần ngắn cũn, tỏa ra xung quanh trong một bán kính chừng hai mét. Đứng trong vùng bán kính này, người ta lập tức có một ấn tượng mơ hồ rằng thằng chả cũng rất gì và này nọ. Duy chỉ có lông mũi là không bao giờ cạo, mọc vô tội vạ. Tôi quen Già Rô không nhớ từ khi nào, láng máng là ngập mùi men bia và tiếng mưa. Ổng kết mô đen Sài Gòn, chắc do vùng người giàu nơi ổng sống có gì đó hay ho. Hang động thời tiền sử chỗ tôi, quên đi.

Rồi tôi cũng đến Sài Gòn, làm công việc tư vấn online chỗ Già Rô giới thiệu. Thỉnh thoảng tôi lại rủ ổng uống bia, phần vì tôi không có nhiều người quen ở xứ sở này để nói chuyện, nhưng chủ yếu là vì ổng hay trả tiền.

– Mày thấy Sài Gòn ngon chưa? – Câu mào đầu quen thuộc của Già Rô, người luôn tìm mọi cách có thể trong mọi dịp có thể để thuyết phục tôi Sài Gòn iz tha best.

– Khói bụi, ồn ào, xô bồ, hỗn loạn. Đồ ăn thì bán phần to tổ bố, giá cao. Một thành phố phồn thực và tệ nạn. – Tôi nói, hớp một ngụm bia mát lạnh.

– Mày nên tranh thủ thời gian đi dò hẻm hóc, chỗ nọ chỗ kia, mới thấy cái tinh túy ảo diệu của Sài Gòn.

– Em không có thời gian, cũng không có thôi thúc muốn đi đây đi đó.

– Mày bèo lắm, viện cớ là giỏi. – Già Rô uống cạn ly bia, ngoắc tay cho chị phục vụ ra dấu thêm hai ly nữa, dù ly của tôi mới cạn một phần ba. Lão sẽ cụng ly liên tục, xin nghỉ đi tiểu, rồi cụng ly, đi tiểu, một vòng xoáy bất tận. Một người bán bia tận tụy mồi chài, tôi nghĩ. Phước cho quán nào vớ được lão này về làm sale. Mà có khi Già Rô sale bia cho tất cả các quán ở Sài Gòn qua một giao ước ngầm nào đó mà tôi không biết. Một cái vẫy tay, một lần nháy mắt, như ra hiệu cho nhân viên quán “thần sale đã đến đây”.

Xen giữa những lần gọi bia và đi tiểu, tôi và Già Rô bàn đủ thứ chuyện trên đời. Phim ảnh, game gủng, gái gú, gia đình,… Bia làm mọi thứ trơn tuột và dễ tuôn ra hơn hết thải. Hiếm khi có mồi nhắm, bia là chủ, đồ nhắm chỉ là lũ hầu hèn kém, thỉnh thoảng ló mặt ra chốc lát chờ sai bảo. Bữa uống thường kết thúc khi đầu tôi chuếnh choáng hoặc vợ Già Rô gọi lão về tập cho con đi ị, như hôm nay. “Anh trả” – Già Rô nói ngắn gọn, nhưng câu từ đủ sức nặng để khiến tôi thấy cuộc đời đẹp hơn đôi chút. Tôi liếc nhìn đồng hồ, 3 giờ chiều.

– Ai lại uống bia vào cái giờ củ cặc này nhỉ? – Tôi cười, mồm mép đã xuất hiện dấu hiệu mất kiểm soát.

– Mày là dân miền Tây mà nói chuyện chán phèo. Người Việt uống không cần giờ giấc. – Già Rô chậm rãi phân tích, vẫn tỉnh táo như bình thường. Tôi biết, nhiêu đây chưa đủ đô của lão. – Hơn nữa, đi uống thỏa thuê trong khung giờ hàng đống hàng đàn con người đang ngồi hiến máu cho tư bản không phải thú vị lắm sao?

– Sẽ thú vị nếu em cũng là tư bản như anh. – Tôi ậm ừ rồi vẫy tay chào lúc ổng lên taxi.

Khung giờ lỡ cỡ kiểu này chẳng có gì làm, còn quá sớm để ngủ hay ăn tối, nhưng quá trễ để tận hưởng không khí một ngày nghỉ ngơi thoải mái. Trở về hàng động là lựa chọn khả dĩ sau cùng, nhưng nghĩ tới không khí oi nồng và mùi nhà bếp phảng phất, ý nghĩ trở về bốc hơi xèo xèo rồi tan biến vào hư không.

Vậy là tôi ra đường sách. Một con đường nhỏ sầm uất ngay giữa trung tâm thành phố được trưng dụng làm nơi bán sách. Đường cấm xe, dọc hai bên là các hiệu sách to nhỏ, mới, cũ, Việt, ngoại, truyện tranh, văn xuôi đủ loại. Sách bày đầy trong các tiệm. Trước cửa tiệm, người ta trưng bày một lô một lốc các kệ sách cũ và sách giảm giá khủng. Đường rợp bóng cây, suốt dọc đường là các ghế gỗ dài cho người ngồi đọc sách hoặc làm gì tùy thích. Gió hiu hiu, lá rơi từng chập, thỉnh thoảng vài con sóc gặm hạt rồi vứt xuống mái các tiệm sách làm phát ra những âm thanh lộp cộp khe khẽ, vui tai. Thời gian trên con đường này dường như trôi chậm hơn cả thành phố náo nhiệt ngoài kia. Giữa thành trì của cây cối và sách vở, những cuộc gọi hối thúc của khách hàng hay tiếng ping ping của tin nhắn không thể có kẽ hở để len vào. Đầu còn váng vất hơi bia, tôi vào một quầy truyện tranh, bốc bừa một cuốn rồi ngả người ra cái ghế dài cạnh cửa tiệm, vừa mân mê lớp bọc nhựa chưa khui của quyển truyện vừa mơ màng ngủ. Nắng chiều chiếu xuyên qua kẽ lá tạo thành các đốm sáng hình bầu dục trên mặt đường. Mỗi lần gió thổi, những đốm sáng đồng loạt xao động như một đám đông khán giả trong sân vận động đứng lên ăn mừng mỗi lần cầu thủ đội nhà ghi bàn.

Hey Jude

Don’t make it bad

Take a sad song, and make it better er er

Remember, to let her into your heart

Then you can start, to make it better

Giọng hát văng vẳng vang lên trên nền ghi ta tự đệm khiến tôi chú ý. Một nhóm các chú trung niên ngồi chơi nhạc Beatles ở quán cà phê sách đối diện chỗ tôi ngồi. Người đang hát trạc tuổi ba tôi, dáng cao, gầy, mặc áo thun cổ tròn màu trơn, cặp kính râm vắt hờ trên cổ áo. Ngón áp út tay phải chú đeo một chiếc nhẫn vàng to cộ, khắc hình đầu sư tử. Bên tay trái là một chuỗi hạt to, màu đen, nhẵn bóng. Tất cả những phụ kiện rườm rà kia vẫn không ngăn nổi những ngón tay thoăn thoắt lướt trên dây đàn. Chú vừa hát vừa đàn, xung quanh là ba bốn người bạn trạc tuổi chú đang nhịp chân và hát theo phụ họa. Chú dẫn theo một con chó bẹc giê khá to, đeo rọ mõm bằng da màu nâu. Nó nằm im dưới chân chú, lơ đễnh nhìn xung quanh, chả buồn để ý đám đông tò mò đứng quay phim, chụp ảnh hay một thằng ất ơ đang say ngồi ở phía đối diện tập trung nghe chú hát. The Beatles, nắng chiều và mùi sách cũ quyện vào nhau, tạo thành một hỗn hợp thực ảo lẫn lộn vây chặt lấy các giác quan tôi.

Gió vẫn xào xạc thổi, phả hơi nước đượm mùi phù sa vào không khí. Đôi mắt hai màu vẫn nghiêm nghị nhìn tôi. Đã sáu tháng kể từ khi đôi mắt đó nhìn tôi trừng trừng từ phía sau, trong khuôn viên ẩn dưới lùm cây ở ngôi nhà treo cổ. Một con bẹc giê Đức to đùng. Mắt nó trong veo, thoáng nét buồn và sự cô đơn thăm thẳm, hệt như mắt người. Một mắt xanh, một mắt nâu. Không có dây buộc, con chó được đi lại tự do. Nhưng theo như tôi thấy thì nó không đi đâu nhiều, chỉ quanh quẩn ở cái cũi gỗ cách lùm cây và gốc cây không xa. Ngoài việc là một con chó Tây to cộ với đôi mắt buồn ra, nó không có gì đặc biệt. Dẫu vậy, hôm nào tôi cũng phải ghé qua gặp nó ít nhất một lần. Tôi tìm kiếm thứ gì, hay ai, tôi không rõ. Bông hoa giống bướm ngày đó chỉ xuất hiện một lần, sau này tôi để ý tìm xung quanh khu đất nhưng không thấy đâu nữa. Con bẹc giê vẫn ở đó, nhìn tôi với ánh mắt đề phòng. Thỉnh thoảng nó có dễ chịu hơn, nhưng mỗi lần tôi tiến lại nó đều dỏng tai, nhe răng, phát ra tiếng gầm ư ử trong cổ họng khiến tôi chùn bước. Các lần sau đó, tôi mang đến cơ man là bánh kẹo, thịt khìa, cá chiên,… để dụ dỗ nó. Hóa ra nó thích kem dừa ốc quế, loại 500 đồng có chế thêm sữa và đậu phộng nghiền mà mấy chú bán kem hay chở đi bán dạo. Sau 6 tháng miệt mài không nghỉ kèm 100 cây kem dừa, cuối cùng tôi cũng đến được sát hàng rào của căn biệt thự. Con chó cũng không ở gần gốc cây nữa mà ra nằm cạnh tôi. Một người, một chó ở hai phía hàng rào. Nó nằm quay lưng lại cạnh hàng rào sắt, tôi thò tay qua khe hở giữa các chấn song gãi bụng, gãi lưng nó, lúc nào cũng tập trung cao độ để rụt tay về bất cứ khi nào con quỷ vàng đen này trở mặt tặng tôi một táp. Dần dà thành quen, tôi có thể ngồi nhìn trời sông mây nước, tay gãi bụng nó mà không cần nhìn lại.

Đến một ngày, tôi đang gãi bụng con bẹc giê như thường lệ, lưng tựa hàng rào, mắt nhìn xa xa xem đám lục bình trôi lềnh bềnh. Một bàn tay lạ chợt nắm nhẹ tay tôi, lắc lắc. Thời gian như một chiếc xe đạp xuống dốc lọt ổ gà, xóc mạnh một chập rồi bon bon đi tiếp.

“Chụ ơi, cai này gỡ sao vậy chụ?” – Một giọng tiếng Việt lơ lớ kéo tôi về đường sách. Nắng chiếu lên mặt ran rát. Một con bé đang nắm tay tôi, mắt cười híp lại. Con bé tóc dài, xen giữa những phần đen nhánh là các lọn tóc nhuộm màu lục và màu thiên thanh tươi rói. Con bé khoác áo sơ mi sọc ca rô khổ to bên ngoài, tay áo xắn lên. Phía trong là áo crop top thun trắng để hở rốn. Quần jean xanh, cao cổ. Cổ chân trắng, gầy nhẳng, mang dép Croc dán đủ thứ hình linh tinh. Tay con bé trắng mịn màng, cổ tay đeo một chuỗi hạt xâu đủ thứ hình lập phương, đầu lâu, ca rô đen đỏ bằng nhựa. Một Harley Quinn vị thành niên đáng giá ba mươi cuốn lịch. Một con bé chưa bao giờ tồn tại kể cả trong những giấc mơ hoang đường nhất của tôi, đang đứng đó, nói u ơ tôi không nghe rõ.

Con bé dẫn theo một con chó, giống Husky đần độn. Không biết chui kiểu gì mà đầu con chó lọt qua khe hở giữa thanh tay vịn và mặt ghế. Qua dễ, về khó, con chó không chui ngược lại được, nên sợi dây treo và con chó kẹt lại tòn ten trên băng ghế chỗ tôi ngồi. Một cảnh tượng hết sức giải trí trên nền nhạc Yellow Submarine. Thảo nào con bé cười dữ vậy.

Không còn cách nào khác, tôi phải gồng mình bê cả cái ghế lên, nghiêng qua để khoảng hở khớp với đầu con chó rồi tách cả hai ra. Chính xác là kéo ghế khỏi con chó, vì nó ngu tới mức không chịu nghiêng đầu để tôi và con bé kéo nó khỏi ghế. Mồ hôi nhễ nhại, con bé quay sang tôi gật đầu cảm ơn rồi nở nụ cười híp mắt thêm lần nữa. Tôi gật đầu đáp lễ, chào con bé rồi ngồi trở lại ghế. Một cơn gió mát dịu thổi tới, lá cây xào xạc xào xạc, tôi thấy lòng mình nhẹ đi một chút.

– Cậu có muốn gặp lại tớ không? – Nàng hỏi, giọng mỏng như băng.

– Tớ không chắc. Có duyên ắt gặp. – Tôi nói mà không nhìn nàng.

– Đừng ngốc vậy, thế giới này rộng lắm. Không liên lạc thì chả bao giờ gặp lại được đâu. – Nàng cười.

– Thế liên lạc kiểu gì? Hay cậu lại cứ biến mất tung mất tích một thời gian dài, rồi tình cờ xuất hiện trở lại trong cuộc đời nhạt nhẽo này của tớ, hết lần này đến lần khác?

– Tớ có một số điện thoại vĩnh cửu. – Nàng vừa nói vừa dùng tay nguệch ngoạc những đường nét vô hình trong không khí. – Tớ sẽ không bao giờ đổi số, nên cậu có thể yên tâm. Cứ lúc nào cần gặp tớ, cậu bấm số gọi là được.

– Miễn là cậu ở Việt Nam.

– Miễn là tớ đang ở Việt Nam. – Nàng lại cười, nụ cười mặc nhiên tồn tại, không quan tâm đến ngữ cảnh, nội dung trò chuyện hay kẻ đang đón nhận nó dù chẳng lấy gì làm vui sướng.

– Tớ không quen gọi. Cậu cần gì cứ gọi tớ là được, vẫn số cũ. – Tôi đáp cụt lủn.

Nàng là con người của những chuyến đi. Là đi biền biệt, không tin tức, không báo trước. Nàng trở về cũng vậy, đột ngột, không duyên cớ. Tôi chưa bao giờ gọi nàng. Không thư từ, không bưu thiếp, email. Tôi sợ cảm giác chờ đợi không nhận được hồi âm. Tôi chán ghét giọng nói thu sẵn của tổng đài “Số điện thoại hiện không liên lạc được”.Những gì không chắc chắn đem lại kết quả, tôi sẽ không làm hoặc trốn tránh hết mức có thể. Giữa cố gắng và buông xuôi, tôi chọn không bắt đầu. Chưa bao giờ tôi nói thích hoặc yêu nàng, không tán tỉnh, không thổ lộ, không thể hiện, dù cả quãng đời học sinh của tôi, điểm đến sau mỗi giờ hết tiết đều là căn nhà treo cổ.

– Alo – Tiếng băng nứt vỡ nghe rắc rắc. Giọng nói mỏng tang cất lên ở đầu dây bên kia. Cậu đang ở đâu vậy, đồ lùn?

– Một nơi có sách, cây, sóc, và nhạc Beatles. – Tôi trả lời, ông chú chơi đàn đã hát đến bài Yesterday. Vì một nguyên do gì đó, tôi bấm gọi số điện thoại mình đã nhớ như in từ ngày xưa lắc.

– Một thành phố to? – Nàng hỏi.

– To nhất Việt Nam.

– Có gần Đức Mẹ không?

– Sát nách.

– Tớ đang dở việc, ba mươi phút nữa có mặt. – Nàng cười rồi cúp máy. Giữa tiếng tút tút và khoảng lặng, tôi cảm thấy mình đã đến gần xứ sở cộng vô cùng, nơi hai đường thẳng song song chuẩn bị cắt nhau.

Anchovy

Anchovy

Đến cuối cùng, tôi là một con cá cơm bình thường giữa bầy cá cờ bình thường, chẳng mảy mai bận tâm đến lũ cá voi hay cá mập ngoài kia.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *