Rồi tôi cũng đến Sài Gòn, giữa một chiều tháng 7 oi bức, ngột ngạt, đầy bụi khói và đủ loại tiếng ồn. Thành phố của đủ thứ ích kỷ, xấu xa, của bon chen và đố kỵ. Việt, hàng xóm thân thiết với tôi lúc nhỏ, cho tôi ở tạm một phòng còn trống trong cái ký túc xá tập thể bé như lỗ mũi mà nó cùng đám sinh viên đại học đồng lứa thuê chung. Một ký túc xá nam điển hình, bẩn thỉu và bừa bộn. Thùng rác đầy ụ, cao như núi, chẳng ma nào thèm dọn. Âm vang khắp các bức tường là tiếng rò rò của cái tủ lạnh cũ, tôi đoán chắc phải từ thời Diệm Nhu còn tại chức.
“Ông cứ ở đây, không có gì phải lo.” Việt hồ hởi. Đám bạn sinh viên của nó toàn người miền Tây, xởi lởi, hoạt bát, chào mừng tôi gia nhập hội huynh đệ bằng một bữa nhậu ra trò. Tôi uống ít, không phải bia không ngon, mà vết ố vàng trên ly bia làm tôi mất hứng. Hơn 1 tuần sau, chén dĩa li tách của bữa nhậu chào mừng mới cơ bản được dọn xong.
Tôi đến thành phố này làm gì, tôi chưa rõ. Cuộc đời tôi mất đi ít nhiều ý nghĩa từ sau sự cố ở ngôi nhà treo cổ. Tôi thì vẫn vậy, có chăng là biến từ một căn nhà sàn đủ chân đủ móng thành chùa một cột. Tôi vẫn đứng đó, vẫn là một cái nhà. Tôi có thể là một kỳ quan, được in lên đồng tiền đất nước, hoặc một kiến trúc lạ đời xiêu vẹo, một thất bại hiển nhiên của tạo hóa, ai biết được.
– Nghe nói có gia đình ông Tây mới dọn vô nhà treo cổ. – Tí, tên cúng cơm của thằng Việt, vừa nói vừa liếc về phía ngôi nhà, mồ hôi nhễ nhại sau trận bóng giao hữu ba người giữa tôi, nó và Huy. Ở quê tôi không có nhiều bạn, chỉ có Huy Tí là bạn nối khố, chơi với nhau từ lúc hai đứa kia còn cởi truồng tắm mưa, tôi sức khỏe yếu, bị gia đình cấm không cho tham gia nên ngồi trong nhà nuốt nước miếng nhìn.
– Trước đây có bà cô gì giàu lắm sống trong căn nhà đó. Nghe đâu là con gái của địa chủ thời trước, tiền vàng chôn chỗ hiểm nên sau đợt tịch biên thời cách mạng nhà bà vẫn giàu nhất nhì xứ mà không ai biết. Bà là con gái một nên được cưng chiều từ nhỏ, lúc ông bà địa chủ mất, bao nhiêu của cải đều để lại hết cho bà. Tuy tuổi đời không quá đôi mươi mà ngoài nhan sắc chim sa cá lặn, bà còn thông minh khéo léo, giỏi làm ăn, nhiều vị trí đắc địa ở Sài Gòn và mấy tỉnh xung quanh đều thuộc mạng lưới của bà quản lý. Sau này người ta không bắt bớ gắt gao như trước, bà mới vung tiền ra làm nhà. Nhà xây bề thế, lăn bê láng cót, quanh năm đều có người làm lau chùi chăm chút, sang lắm. Có ban công trên lầu cao hướng ra sông, chiều chiều hóng gió thì phê chết mẹ luôn. – Huy biết tuốt, thằng bé con nhà chủ đò, với mạng lưới thông tin trường học và lời đồn của khách qua đò dày đặc, kể với giọng khào khào mới vỡ, âm điệu hạ thấp như để tăng thêm phần kịch tính cho câu chuyện nửa ma nửa thật – Bà chủ nhà theo đạo Chúa, ở giữa xứ quê mà Noel năm nào cũng trang hoàng hang đá lộng lẫy như cung điện, báo đài về quay phim chụp ảnh miết.
Huy nuốt nước bọt, lấy hơi rồi nói tiếp.
– Bà chủ nhà đẹp mà mộ đạo lắm. Tối nào cũng ngồi khấn trước tượng Chúa. Hai mươi tư tuổi, sáng hay tối, xuân hay hè, lúc nào bà cũng mặc áo dài nhung tím. Bà nghiêm khắc, kỹ tính nhưng được cái rộng rãi, tiền công trả gấp năm bảy lần nhà khác, thưởng phạt đâu ra đó nên người làm vừa kính vừa sợ, không ai dám trái ý bà. Đàn ông con trai trong vùng thì khỏi nói, mê bà như điếu đổ. Nhưng ở bà có một nét quý phái, kiêu sa đặc biệt khiến ai bắt gặp cũng phải tự ti lùi ra một bước. Bà chủ giống như bông hồng buồn đầy gai trưng trong lồng kính, một bức tường vô hình chưa ai phá được ngăn cách bà với tất cả những người còn lại. Từng có mấy cán bộ cấp cao, thuộc dạng tầng lớp tinh hoa đến hỏi cưới bà cho con trai. Bà tiếp đãi nhiệt tình, nhưng viện lý do khác biệt giai cấp và tư tưởng để từ chối khéo, kèm một khoản quyên góp khổng lồ cho chính quyền, gọi là “quà đền bù tổn thất tinh thần”. Về sau, bà làm thân với các cụ tổng trên bộ. Các khoản hỗ trợ thường niên bà gửi đều, nên mấy ông công bộc của dân ngầm hiểu ý, không đến làm phiền bà nữa.
Huy ngừng một chốc, ra cái vẻ sành đời, liếc nhìn tôi và thằng Tí đang ngồi nghe không chớp mắt.
– Sao mày biết nhiều thế? – Tôi hỏi. Không thể có mạng lưới thông tin bến đò nào đầy đủ và chi tiết như vậy được.
– Ba mẹ em trước đây làm công cho bà chủ. Bà cũng mai mối cho hai người, còn bỏ tiền ra lo đám cưới và cho thêm một số vốn làm ăn. Mẹ em hay kể về bà suốt.
– Thôi tiếp đi, đang hay. – Rõ là thông tin của thằng Huy khá chất lượng, không phải kiểu hàng tôm hàng cá thông thường.
– Người đến gần được với bà chủ nhất chắc là chú Tư thọt. Chú đẹp trai, cao ráo, thân hình vạm vỡ lực điền kiểu nông dân. Hồi thanh niên xốc nổi, chú bỏ nhà đi làm cách mạng, bị bom bi bắn lủng mắt cá chân phải. Thời chiến chữa chạy ẩu tả thế nào mà chú thọt luôn, chân đi cà nhắc bước thấp bước cao. Hòa bình, chú về quê cũ, làm mướn sống qua ngày. Chú Tư tàn nhưng không phế, làm gì cũng khéo, ham học hỏi, tháo vát giỏi giang lại hiền lành, chân chất nên ai cũng quý. Người ở quê, thấy sao kêu vậy, riết rồi Tư thọt thành tên cúng cơm của chú, người ta gọi riết thành quen, quên luôn tên thiệt. Chú không để bụng, ngược lại còn tự hào, ra chiều khoái cái biệt danh này lắm.
Rồi chú về làm cho nhà bà chủ. Chú hơn bà mười tuổi, quán xuyến mọi việc trong ngoài, một quản gia mẫu mực, bà chủ tin lắm.
“Ông Tư hò ngọt lịm, ba mày hồi xưa mà hò được bằng một phần mười ông Tư thôi là tao tự theo, khỏi cần mai mối chi cho mệt.” Mẹ thằng Huy nhớ lại, trong lúc đang đập đầu cá lóc nấu canh. Bọn tôi đã di chuyển từ sân banh về nhà thằng Huy, một mặt để ăn cơm ké, mặt khác để nghe người thật việc thật kể chuyện.
Con sông dài, cá lội biệt tăm.
Phải đâu duyên nợ, cho mình đợi mong.
Hò ơ…
Mấy tối rỗi việc chú Tư hay ra bến tàu dưới chân biệt thự ngồi hát và ngắm sông. Bà chủ đứng trầm ngâm trên lầu lắng nghe. Tất cả chỉ có vậy. Hai người giữ phận chủ tớ rất rõ ràng, không để ai dị nghị.
“Thằng chả chưa bao giờ mở miệng nói xiêu bà chủ. Hai người lúc nào cũng đứng cách nhau một khoản tầm ba cùi chỏ. Nhưng mấy cha mù nhìn còn biết, trăm việc ngàn việc ổng làm đều vì bà chủ.” – Lại một lời trích vàng ngọc của má thằng Huy.
Làm đâu đó được hai năm, bà chủ cho chú Tư miếng đất bằng cạnh căn biệt thự, muốn xây nhà hay làm gì tùy ý. Thời đó đất không ảo giá như bây giờ, nhưng người làm công được chủ tặng cho miếng đất là chuyện có một không hai, đủ thấy bà chủ coi trọng chú Tư nhường nào.
Chú Tư không xây nhà, ổng làm nhà kính, vun đất trồng hoa. Rảnh lúc nào là ổng đào đất, làm cỏ, tỉa cành. Chú Tư không tiếc tiền của thuê người lên núi tìm hoa, nhiều chuyến khó nhằn chú phải sang tận Trung Quốc hoặc lên núi Cam, Lào, Thái săn hoa. Chú trồng bạch dạ hồ điệp. Hoa hai cánh lớn, một cánh trắng một cánh tím, giữa là nhụy vàng, tạo hình như cánh bướm. Cây không lá. Thân cây, rễ cây đều có mùi hương dịu nhẹ tự nhiên. Đúng đợt trăng tròn mỗi tháng, hoa nở. Cánh hoa chuyển động dập dìu như từng đợt sóng, thổi phấn hoa và hương thơm đi xa. Bạch dạ hồ điệp không thơm nhờ hoa, mà do hoa vỗ cánh đưa hương thơm từ thân, rễ lan ra xung quanh. Giữa rừng hoa ngày rằm tháng 8, lúc trăng tròn nhất, không khí phủ một màn sương phấn mỏng màu trắng, thơm ngát. Rừng hoa chuyển động như hàng trăm hàng ngàn con bướm đồng loạt đập cánh. Trăng tàn, hoa khép. Sau mỗi đợt trăng cánh hoa biến mất không dấu vết, cả đàn bướm rủ nhau tạ thế một lần.
“Giống hoa quỷ ôn, ai biết có thiệt hông. Người đồn nhiều hơn người thấy. Suốt một năm ròng, ổng đem về được năm chục gốc, chết hết còn trơ hai gốc. Hên sao có ông thầy tu trên am Cao Đỉnh, núi Tà Lơn thấy ông Tư có lòng, vạch cho đường sáng.” – Mẹ Huy đã đánh vảy cá xong, đang rửa ruột cá.
Bạch dạ hồ điệp kỵ đèn, kỵ sắt. Đào đất vun gốc phải đào bằng tay, trong vườn không được có dao, rựa, leng, xẻng, cuốc hay đèn đóm gì hết. Làm cỏ cũng phải nhổ bằng tay, muốn diệt sâu phải nuôi thêm kiến vàng, không được có bất cứ thứ gì nhân tạo. Chú Tư bươi đất chảy cả máu tay, mình mẩy mặt mày bị kiến cắn đến sưng vù. Tầm một năm sau, chú trồng được một vườn to. Lẽ ra còn trồng được nhiều nữa, mà hoa trồng gần vách nhà kính, gặp hơi kính đều chết, phải trồng cách vách kính mỗi bề năm mét.
Đúng như lời đồn, mỗi đợt trăng tròn, dưới ánh trăng lấp lánh phản chiếu qua nhà kính, cả khu vườn như rợp bướm bay. Mùi thơm nhẹ, dễ chịu lan khắp cả xóm, lớp sương trắng mỏng tràn ra bến sông, len lỏi theo từng ngóc ngách căn biệt thự. Cũng là lần đầu tiên, cứ mỗi độ trăng về, bà chủ tạm ngừng một ngày cầu nguyện, theo chú Tư xuống thăm vườn hoa.
“Thằng chả kỹ tính, lo bà chủ bị kiến cắn, trước mỗi buổi trăng lên là băm vụn lòng gà, lòng vịt, rải gần gốc cây để dụ kiến ra. Xong ổng đào quanh từng gốc cây một con hào nhỏ, lót lá sen, đổ nước ngập hào, rồi còn rải thêm tro với muối để cản đám kiến trở ra. Vua chúa thời xưa được cung phụng tới mức này là hết đát, có khi còn không bằng ông Tư lo cho bà chủ.”
Bà chủ thì vẫn vậy, kiêu sa, trầm mặc, lạnh như băng. Mỗi tháng vài lần, chú Tư lái xe đưa bà lên Sài Gòn lo công việc hoặc đi lễ nhà thờ lớn. Bà đi xe hơi riêng, loại tân kỳ, lên nước đen bóng lộn. Mỗi lần xe bà chủ đi qua là con nít trong xóm túa ra hai bên đường, đứng xem trầm trồ như coi hội. Chú Tư lái vững tay, lúc nào cũng cẩn thận nên luôn lãnh trọng trách chở bà chủ đi đi về về. Bất kể tình trạng tật nguyền, bà chủ vẫn lo được cho chú một giấy phép lái xe chính thống. Xe của bà, chú Tư được tùy ý sử dụng, nhưng ngoài những lúc chở bà chủ và lau chùi, vệ sinh xe ra, chưa bao giờ thấy chú đụng tới chiếc xe.
Mẹ thằng Huy đã làm cá xong, đang chuyển sang rửa khoai, kể tiếp. – Rồi có một dạo, bà chủ đi Sài Gòn thường xuyên hơn. Bình thường căn biệt thự vốn yên tĩnh, nay càng trầm mặc. Bà chủ kín kẽ, ít giao du với hàng xóm láng giềng, chỉ gặp mặt kẻ ăn người ở hoặc tiếp khách đến có việc cần. Giờ người làm cũng hiếm khi thấy bà. Chú Tư đưa bà đi, rồi lại quay về quản lý công việc, chăm nom biệt thự. Vài ngày sau, chú mới trở lại Sài Gòn đón bà về. Bà chủ thường đi lúc tờ mờ sáng, trở về lúc tối mịt nên lại càng hiếm gặp ai. Có một lần, dì bị bệnh nên nghỉ cả ngày. Đến khuya hôm đó phải tất tả vào biệt thự lau dọn phòng bà chủ, vì chú Tư có báo sáng sớm hôm sau bà về. Phòng bà chủ hướng ra bến sông, có hai cửa sổ kính, kéo rèm, bên ngoài là ban công nơi bà hay đứng nghe chú Tư hát. Đêm đó rằm lớn, mặt trăng tròn vành vạnh, trời sáng như bật đèn, khắp xung quanh là lớp sương hoa mỏng trắng mờ mờ. Dì đang lui cui đẩy xe lau dọn vô phòng bà thì phát hiện cửa sổ đang mở, rèm kéo ra hai bên, ánh trăng xuyên vào khung cửa tạo thành một mảng sáng nhờ nhờ. Bà chủ đứng ngoài ban công, tóc xõa.
“Từ thủa cha sanh mẹ đẻ tao mới thấy bà chủ xõa tóc lần đầu. Bà lúc nào cũng chít gọn hoặc búi cao, giống mấy cô giáo già trong trường mày vậy. Mà sang hơn, đẹp hơn mấy chục lần.” – Mẹ thằng Huy bồi hồi, tay vẫn không ngừng gọt vỏ khoai.
Bà đứng đó, nhìn trăng, quay lưng về phía dì. Tóc bà dài, đen óng như hắc ín. Bà khẽ đưa tay vuốt tóc, bàn tay như lạc mất giữa màn đêm đặc quánh do mái tóc tạo nên. Bà chủ không mặc áo dài như trước nay vẫn vậy, mà mặc váy. Tấm váy trắng mềm, dài quá gối, điểm mấy bông hoa vàng nhỏ lá xanh. Rồi bà quay lại, rất tự nhiên, như thể chuyện dì tình cờ xuất hiện trong phòng bà lúc khuya lơ khuya lắc là điều gì đó số phận đã định sẵn, bà nhìn dì. Đôi mắt bà đẹp mê hồn, hấp háy cười. Giữa cái khung cảnh huyền ảo mơ mơ thực thực đó, dì đứng như trời trồng, chết lặng.
“Bà chủ không cười, mắt bà cười. Mày nhìn một lần là hết thấy mùa đông luôn. Tao mà là đàn ông chắc đêm đó phải tội với đời. Như thể bà chủ dồn nén hết xuân thì hơn ba mươi năm rồi phát tiết ra trong đêm. Tao còn tưởng mình còn hâm hấp sốt nên ảo giác, cũng không nhớ có dọn phòng không, hay về nhà hồi nào. Sáng hôm sau tao quay lại thì bà đi Sài Gòn rồi, trên giường còn để lại cái váy, tao mới biết không phải nằm mơ.” – Mẹ thằng Huy vừa nói với nó vừa cười, không biết nó có hiểu phải tội với đời là sao không.
Sau lần đó, bà chủ về nhà càng thưa, có khi hai ba tháng mới về một lần. Mỗi lần về bà đều ở rịt trong phòng, đồ ăn nước uống người làm mang lên gửi chú Tư, để chú mang vào. Ngoài ra bà không gặp ai, cũng không tiếp khách. Đầy tớ thấy lạ nhưng không dám hỏi, chú Tư vẫn quán xuyến công việc lúc bà không có nhà, lương thưởng trả đủ nên từ từ không ai thắc mắc gì thêm.
Một thời gian sau, bà chủ về rồi ở nhà luôn, không đi nữa. Bà vẫn mặc áo dài, tóc chít cao, mỗi tối vẫn quỳ cầu nguyện trước tượng Chúa và đứng ban công nghe chú Tư hát hàng đêm.
Em chờ em chờ cau trầu đưa tới
Pháo hoa rượu nồng
Nhìn cô dâu trẻ vu quy…
“Nhìn bên ngoài bà chủ không có gì khác hết, vẫn y chang như vậy. Mày để ý kỹ cách mấy cũng không tìm ra điểm khác nhau đâu con. Chỉ có tao thấy là lạ, mà không hiểu kiểu gì. Bà chủ như cái ấm nước sôi á, sự sống trong bà bốc hơi từng chút, từng chút, ngày qua ngày, tới khi chỉ còn trơ đáy.”
Bà treo cổ trong phòng, ngay chỗ cái ban công. Đến quá trưa thì người ta phát hiện. Xác bà đung đưa nhẹ nhàng theo từng đợt gió sông. Chú Tư đỡ bà xuống, nhẹ như bông. Lạ ở chỗ bà y hệt như bình thường, cổ không bầm, thân thể sạch boong, không xú uế. Hai mắt bà nhắm hờ, ai không biết còn tưởng bà đang nằm ngủ. Nhìn bà người ta có cảm tưởng bà đã đi về với Chúa từ bao giờ, phần xác thịt còn lại do ai treo hờ lên vòng thòng lọng.
Công an đến điều tra xem xét hết hai ngày, một đội mười tám người. Nhà báo, đài truyền hình đến làm phóng sự nườm nượp. Ai cũng chắc mẩm một nghi án giết người giành tài sản, hoặc người làm hãm hại. Chú Tư là người bị thẩm tra nhiều nhất. Chú trả lời bình thản, giọng rõ ràng, gãy gọn đâu ra đó. Chỉ có những việc liên quan đến khoảng thời gian bà chủ vắng nhà là chú đáp gọn lỏn “không biết”. Di chúc, luật sư bà chủ đều chuẩn bị sẵn sàng, một khoản tiền lớn quyên cho địa phương, một khoản to đùng khác quyên cho một quỹ từ thiện nào không rõ, mọi việc chấm hết. Bà chủ đến lúc mất vẫn là người kỹ tính, một cái chết được bà lên kế hoạch và sắp đặt chỉn chu, tỉ mẩn.
Đám tang khiêm tốn và có phần sơ sài. Chú Tư không khóc, cũng không hát nữa. Tang chay hỏa táng xong, chú cầm dao ra vườn. Chú Tư bật từng gốc hoa lên, băm nát vụn từ gốc đến ngọn. Nhựa cây đặc sệt quyện cùng mùi thơm ngào ngạt cay xè mắt. Chú diệt cây cũng nhiệt tình và tỉ mẩn cũng như lúc chú trồng cây. Sau khi cả mảnh vườn biến thành một đám bầy nhầy hoang dại, chú dỡ hết tường kính cất vào kho, rồi đào một hào nước to bao quanh khu vườn cũ. Đêm đó, không trăng, chú đổ xăng đốt sạch tất tần tật những gì còn lại của khu vườn.
“Ông Tư sợ lửa lan ra, bén vô biệt thự nên đào sẵn con hào nước. Thiệt sự, tới lúc đó mà ổng còn chu đáo.” – Mẹ thằng Huy bằm khoai lạch cạch trên cái thớt gỗ, mắt chớp chớp.
Rồi chú mang tro cốt của bà chủ đi biệt xứ, không ai biết chú đi đâu, làm gì. Di chúc ghi rõ, chú chăm nom phần cốt của bà, không ai làm khó dễ. Người làm trong nhà được tặng một số vốn lớn, mỗi người tản mác một nơi. Căn nhà sau này được công ty bà rao bán. Nhà còn mới, được chăm chút kỹ lưỡng, nội thất toàn đồ nhập mà bán giá rẻ như cho, nên người hỏi mua nườm nượp.
– Ngặt cái căn nhà có dớp. – Huy hạ giọng cho thêm phần kịch tính.
Chủ tịch huyện là người đầu tiên mua lại căn biệt thự. Hai tháng sau, ông dẫn tình nhân về hú hí bị vợ phát hiện. Bà vợ dẫn con bỏ về nhà mẹ ruột, còn ông chủ tịch tối ở nhà uống say, ngã từ ban công xuống rồi lăn thế nào lọt xuống bến tàu, chết đuối trôi sông.
Rút kinh nghiệm, cựu bí thư về hưu trước khi dọn vô mời thầy về cúng. Đâu hai tuần, ở chưa ấm chỗ, ông bị khui vụ tham nhũng thời còn tại chức, xong chết do đau tim lúc đang ngồi xe bít bùng về đồn thẩm vấn.
Tầm dăm ba lần như vậy, ai cũng rén, mấy người đặt cọc ban đầu bỏ của chạy lấy người hết.
“Toàn chuyện tầm xàm tầm bậy. Tháng nào tao với ba mày cũng ra biệt thự quét tước, dọn dẹp, có thấy gì đâu. Tao cũng mong bà chủ hiện về một lần mà chưa bao giờ gặp.”
– Chắc mấy người kia có tật giật mình, chứ người hiền ở thì không sao. – Tí nhận xét.
– Người hiền làm gì có tiền mua biệt thự, mấy người mờ ám mới đủ tiền thôi. – Tôi chốt.
Lúc này trăng lên cao, tròn trùng trục. Ăn ké cơm mẹ thằng Huy xong, tôi với Tí ra về. Nhà tôi, Huy, Tí nằm trên một đường thẳng. Nhà thằng Huy xa nhất, đến nhà Tí, xong đi thêm một đoạn qua khu đất bằng và biệt thự treo cổ mới về đến nhà tôi. Tôi dừng lại ở khu đất trống, bao quanh mặt trước khu đất là dây kẽm gai dựng lên chắp vá, một cánh cửa gỗ mục nát chặn lối vào. Cũng chả ai quan tâm, có gì đâu mà sợ mất. Miếng đất như phần hói giữa đỉnh đầu một ông giáo sư già trường đại học, xung quanh tóc tai cỏ dại um tùm, nhưng ngay phần trung tâm thì bằng phẳng, trống hoác, mười năm hơn không mọc nổi một bóng cây ngọn cỏ. Đây hẳn là chỗ trước đây chú Tư làm lễ tế hoa, tôi nghĩ.
Định ra về thì có gì đó phát sáng khiến tôi chú ý. Chồn máu liều, tôi đẩy cửa rào bước vào. Gặp mấy anh nghiện đang mồi lửa thì đời bế mạc. Thôi kệ, anh rể tôi là công an, hay đi lùa mấy thành phần bất hảo. Lỡ có gì nói tên anh ra chắc cũng được nể nang đôi chút. Tôi nghĩ vậy rồi tặc lưỡi tiến lên.
Ông giáo sư già sẽ nghĩ gì khi một ngày thức dậy, giữa đỉnh đồi bóng kin kít mọc lên một sợi tóc tơ? Tôi không rõ, chưa bao giờ tôi muốn trở thành giáo sư hay nghĩ mình bị hói. Nhưng sự thể rõ ràng là vậy. Trong một góc hơi khuất trên bãi đất bằng, phảng phất một lớp sương mờ trắng được ánh trăng phản chiếu. Lớp sương mảnh và nhỏ, như một túm mây con con tình cờ trôi lạc từ trời xuống. Càng đến gần, mùi thơm dịu càng dễ chịu. Một cái cây kỳ lạ, khẳng khiu, trên thân cây có mấy con bướm nửa tím nửa trắng đang đập cánh. Lũ bướm dạn dĩ, không biết sợ người. Tôi bất giác đưa tay ra bắt một con, rồi ngay lập tức rụt tay về. Không phải bướm.
Đúng lúc đó, một cảm giác rờn rợn nơi sống lưng. Tôi quay đầu nhìn về phía căn biệt thự. Khuất dưới bóng tối tạo ra bởi bụi cây nơi mặt trăng không chiếu tới, một đôi mắt hai màu sáng quắc, nhìn tôi đăm đăm không chớp.